Trị vì Đồng_Trị

Tháng 7 năm Hàm Phong thứ 11 (1861), Hàm Phong Đế băng hà, Thái tử đăng cơ trở thành Hoàng đế thứ 10 của nhà Thanh, đặt niên hiệu đầu tiên là Kỳ Tường (祺祥帝). Đích mẫu của Kỳ Tường, Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị, Chính cung của Hàm Phong Đế được tôn làm Mẫu hậu Hoàng thái hậu, lấy hiệu Từ An Hoàng thái hậu; sinh mẫu Ý Quý phi trở thành Thánh mẫu Hoàng thái hậu, lấy hiệu Từ Hi Hoàng thái hậu.

Ông là Hoàng tử duy nhất còn sống đến khi Hàm Phong Đế qua đời, vì vậy quyền thừa kế của ông gần như là chắc chắn. Trong lịch sử nhà Thanh, ông cũng là vị Hoàng đế đầu tiên và duy nhất có thân phận Hoàng trưởng tử chân chính (không xét trường hợp huynh trưởng chết yểu như Đạo Quang Đế).

Chính biến Tân Dậu

Ngày 14 tháng 9 năm Hàm Phong thứ 11 (1861), Sơn Đông Ngự sử Đổng Nguyên Thuần tấu thỉnh 2 vị Thái hậu quản lý triều chính, nhưng Túc Thuận phản đối việc hậu cung can chính. Từ Hi Thánh mẫu Hoàng thái hậu thấy con còn nhỏ, sợ để 8 đại thần phụ chính sẽ bị chèn ép nên gợi ý với Từ An Mẫu hậu Hoàng thái hậu đoạt quyền chấp chính, tiến hành chính biến. Bà xây dựng vây cánh gồm các tướng lĩnh, quan lại, Thân vương bất đồng với 8 đại thần, trong đó có Cung Thân vương Dịch Hân và Thuần Thân vương Dịch Hoàn, Hoàng tử thứ 6 và 7 của Đạo Quang Đế. Ngoài ra còn có Thị lang Thắng Bảo và Đại học sĩ Giả Trinh.

Lưỡng cung Thính chính

Khi đoàn đưa linh cữu Hàm Phong Đế rời Hà Bắc về Bắc Kinh, Túc Thuận và các phụ chính đại thần phải theo hộ giá quan tài; 2 vị Thái hậu, Tân đế và 2 vị Thân vương chớp lấy thời cơ về Tử Cấm Thành trước để có thời gian bố trí kế hoạch và củng cố phe cánh. 8 đại thần về đến Bắc Kinh thì lập tức bị bắt giam, tước vị, khép tội phản nghịch. Túc Thuận đứng đầu nên bị xử trảm, Tải Viên và Đoan Hoa bị bức tự vẫn. Sử sách gọi đây là chính biến Tân Dậu[2].

Tháng 11 năm Hàm Phong thứ 11 (1861), Lưỡng cung Thái hậu đề ra chính sách Lưỡng cung thính chính (兩宮聽政), tức buông rèm nhiếp chínhDưỡng Tâm điện. Từ An là Chính cung Hoàng hậu của Tiên đế, phụ trách quốc sự, lấy danh nghĩa Kỳ Tường Đế ban phát chỉ dụ. Từ Hi địa vị thấp hơn, phụ trách việc vặt như chi tiêu sinh hoạt trong cung, đối với việc trọng đại phải thông qua quyết định của Từ An.

Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), Kỳ Tường được cải niên hiệu là Đồng Trị (同治帝), tức nghĩa "cùng nhau thống trị thiên hạ".

Việc nước

Từ nhỏ, Đồng Trị nhận sự giáo dục nghiêm khắc của sư trưởng Miên Du và 4 sư phó nổi tiếng do đích thân Từ Hi tuyển chọn. Họ nhồi nhét Hoàng đế đủ loại kinh sách, từ bài học trị dân trị nước đến đạo làm người, sức ép từ việc học cũng như kỳ vọng cao của mẹ khiến Đồng Trị trở nên chán nản và lười biếng.

Theo nhật ký của Ông Đồng Hòa, con trai một vị sư phó của Đồng Trị thì "Hoàng đế không thể đọc nổi một bản tấu chương dù đã 16 tuổi". Từ Hi thấy vậy càng thúc ép nhiều hơn, tuy nhiên cho đến khi tự mình chấp chính vào tháng 11 năm 1873, Đồng Trị vẫn tỏ ra là một vị Hoàng đế thiếu năng lực.

Theo góc nhìn của các nhà sử học, dưới thời Đồng Trị, việc trị quốc vốn đã khó khăn vì Trung Quốc đang phải chịu sự xâm nhập kinh tế từ các đế quốc. Trước áp lực này, giới phong kiến triều Thanh phải từng bước thiết lập một nền công nghiệp tự cường, theo kiểu tư bản. Sử gọi đây là phong trào Dương Vụ (kéo dài cho đến những năm 90 của thế kỷ 19).

Về mặt quân sự, ở thời Đồng Trị, Trung Quốc tiếp tục bị các nước Anh, MỹNhật Bản gây sức ép nặng nề. Đáng kể là vụ:

  • Năm Đồng Trị thứ 6 (1867), một chiếc tàu Mỹ đụng phải đá ngầm bị chìm ở Đài Loan. Mỹ vin cớ đó cho rằng người dân ở nơi đấy đã giết hết thủy thủ của họ, nên sai quân đến tàn sát dân chúng. Nhưng sau đó, quân Mỹ phải rút đi vì bị người dân chống cự rất quyết liệt.
  • Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), Nhật Bản cho quân đổ bộ đánh chiếm Đài Loan, nhưng rồi cũng phải rút đi vì bị quân Thanh và người dân địa phương chống đối quá. Tuy vậy, Thanh đình phải bồi thường cho Nhật Bản 50 vạn lạng bạc.
  • Năm Đồng Trị thứ 14 (1875), sau khi đế quốc Anh thôn tính xong Miến Điện, thì bắt đầu âm mưu xâm lược tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); buộc Thanh đình phải ký "Điều ước Yên đài" cho phép họ được hoạt động ở các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Tây Tạng, Cam TúcThanh Hải.

Dưới tình hình quốc gia suy yếu, việc Đồng Trị thấy nản chí, lơ là quốc sự là điều không tránh khỏi.

Việc trong cung

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, năm 1872, Đồng Trị tròn 17 tuổi. Lưỡng cung Thái hậu tuyển chọn hậu phi, trong số tú nữ, 2 người có tư chất mẫu nghi thiên hạ nhất là A Lỗ Đặc thị, con gái của Hàn lâm viện Thị giảng Sùng KhởiPhú Sát thị, con gái của Viên ngoại lang Phụng Tú.

Ông ngoại A Lỗ Đặc thị là Đoan Hoa, chết trong chính biến Tân Dậu, vì vậy Từ Hi sẵn có ác cảm. Hơn nữa A Lỗ Đặc thị tuổi Dần, Từ Hi sợ xung khắc với tuổi Mùi của mình (cọp ăn thịt dê) nên lấy cớ nàng là người Mông Cổ, từ thời Ung Chính Đế không có tiền lệ sắc phong nữ Mông Cổ làm Hậu. Bà tiến cử Phú Sát thị, cho rằng lập Hậu nên chọn con nhà danh môn đoan trang thùy mị. Con nhà khoa bảng tuy thông minh xuất chúng nhưng có nguy cơ can dự triều chính[3].

Tuy nhiên, mẹ của A Lỗ Đặc thị, Ái Tân Giác La thị là biểu tỷ của Từ An. Bà muốn cháu mình được phong Hậu nên đề bạt trước Đồng Trị. Từ nhỏ Đồng Trị được Từ An cưng chiều nên có phần quý hơn mẹ đẻ. Mặc cho Từ Hi phản đối, Đồng Trị phong A Lỗ Đặc thị làm Chính cung Hoàng hậu, còn Phú Sát thị làm Tuệ phi (惠妃). Để bù đắp cho Tuệ phi, Từ Hi ra chỉ dụ cho nàng hưởng đãi ngộ của Quý phi (貴妃).

Đồng Trị độc sủng một mình Hoàng hậu và xa lánh Tuệ phi vì nghĩ nàng là tai mắt của Thái hậu. Ngày xưa Tiên đế sủng ái Lệ phi, Từ Hi cảm thông cho các phi tần nên ra chỉ dụ yêu cầu Đồng Trị đối xử công bằng với thê thiếp trong cung, đồng thời sai thái giám theo dõi nhất cử nhất động của ông. Đồng Trị phớt lờ chỉ dụ nên Từ Hi nổi giận lôi đình, cấm Đế - Hậu được ở cùng nhau.

Đồng Trị giận mẹ can thiệp chuyện hậu cung nên quyết định trùng tu Cung điện Mùa hè, vốn bị liên quân Anh - Pháp phá hủy trong Chiến tranh nha phiến lần 2, để dâng lên Lưỡng cung Thái hậu. Một số sử gia nhận xét đây là cái cớ để đẩy Từ Hi ra khỏi Tử Cấm Thành. Tuy nhiên, việc thi công gặp trở ngại do quốc khố khánh kiệt sau nhiều binh biến. Đồng Trị đành kêu gọi bá quan văn võ góp tiền túi, đồng thời mỗi tháng đích thân vi hành giám sát thi công trong nhiều ngày để thỏa thích vui chơi ngoài kinh thành.

Không hài lòng Hoàng đế bỏ bê triều chính, Cung Thân vương Dịch Hân, Thuần Thân vương Dịch Hoàn cùng nhiều quan chức gửi tấu chương yêu cầu chấm dứt việc xây dựng Cung điện Mùa hè[4]. Đồng Trị tức giận cách chức và thu hồi tước vị Thân vương của Dịch Hân, tất cả các quan có tên trong bản tấu cũng lần lượt bị bãi chức. Được cấp báo, Từ An và Từ Hi lập tức xuất hiện giữa phiên triều, quở trách Đồng Trị hành xử vô tri, yêu cầu thu hồi các sắc chỉ đã ban. Từ Hi còn nói: "Nếu không có Cung Thân vương thì làm sao mẹ con ta có được ngày hôm nay"[5].

Cảm thấy thất bại và bất lực trong việc điều hành quốc gia theo ý mình, Đồng Trị thường cùng với một vài hoạn quan trốn khỏi kinh thành ban đêm, đi chơi phố phường, nhiều lần về trễ không kịp buổi triều buổi sáng.